Trong những năm gần đây công tác
quản lý bảo vệ rừng đã được quan tâm và chú trọng, nhận thức của người dân về
vai trò, tầm quan trọng của rừng đã có những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên áp
lực của việc gia tăng dân số, dân di cư tự do, tập quán canh tác của người dân
sống gần rừng nên nhu cầu về đất sản xuất và nhu cầu về gỗ, lâm sản ngày càng
tăng. Do đó việc phá rừng, khai thác lâm sản, lấn chiếm đất rừng trái phép vẫn
còn xảy ra ở các khu vực giáp ranh giữa các địa phương, giữa vùng đệm với các
Vườn quốc gia, khu bảo tồn, làm ảnh hưởng không nhỏ đến tài nguyên rừng, gây
khó khăn trong công tác quản lý bảo vệ rừng. Việc xác định ranh giới và cắm mốc
ranh giới của các khu rừng là rất quan trọng và hết sức cần thiết nhằm mục tiêu
xác định rõ ranh giới của rừng với các địa phương, chủ rừng lân cận, tạo thuận
lợi cho công tác quản lý, bảo vệ rừng, bảo tồn thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh
học và nâng cao ý thức bảo vệ rừng của người dân trong việc bảo vệ rừng. Đồng
thời, để tăng cường cơ sở pháp lý cho việc quản lý rừng của các cơ quan quản lý
Nhà nước và chính quyền các cấp, xác định phạm vi trách nhiệm của chủ rừng, tạo
điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các biện pháp quản lý, bảo vệ các loại rừng
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành Quyết định số 3013/1997/QĐ-BNN
ngày 20/11/1997 về việc ban hành quy chế xác định ranh giới và cắm mốc các loại
rừng có “Quy chế xác định ranh giới và cắm mốc các loại rừng” kèm theo. Bản quy
chế này quy định những nguyên tắc cơ bản, các giải pháp kỹ thuật chủ yếu cho việc
xác định ranh giới và cắm mốc các loại rừng. Quy chế này áp dụng cho việc xác định
ranh giới và cắm mốc đối với các loại rừng và đất rừng sau đây: Ranh giới và mốc
giới các loại rừng là cơ sở xác định lâm phận các loại rừng đồng thời cũng là
cơ sở pháp lý để ngăn ngừa, xử lý các trường hợp lấn chiếm rừng, tranh chấp quyền
sử dụng đất, sử dụng rừng.
Theo Điều 5 của Quyết định 3013/1997/QĐ-BNN
ngày 20/11/1997: Xác định ranh giới nêu rõ: Đối với rừng đặc dụng và rừng phòng
hộ: Ở những nơi đã có các văn bản pháp lý thì căn cứ vào bản đồ tiến hành xác định
ranh giới trên thực địa. Nếu ranh giới trên bản đồ phù hợp với ranh giới hiện
đang quản lý trên thực địa thì tiến hành cắm mốc. Nếu không phù hợp thì tiến
hành bổ sung hoặc chỉnh lý sau đó mới tiến hành cắm mốc; Đối với các khu rừng tự
nhiên: Nơi đã có các văn bản pháp lý thì căn cứ vào bản đồ quy hoạch kết hợp với
bản đồ kiểm kê rừng nếu có để tiến hành xác định ranh giới và cắm mốc trên thực
địa. Nơi chưa có các văn bản pháp lý hoặc đã có nhưng không còn phù hợp thì Uỷ
ban nhân dân tỉnh giao cho Sở Nông nghiệp và PTNT chủ trì, phối hợp với các cơ
quan liên quan, Uỷ ban nhân dân huyện, xã thực hiện việc xác định ranh giới và
cắm mốc, sau đó chuyển giao kết quả và hồ sơ khu rừng cho Uỷ ban nhân dân nơi
có rừng, cơ quan kiểm lâm và cơ quan nông nghiệp và PTNT để quản lý.
Trên cơ sở của bản đồ kết quả kiểm
kê rừng các tỉnh thuộc dự án “Tổng điều tra, kiểm kê rừng toàn quốc giai đoạn
2013 - 2016” thực hiện theo Quyết định số 594/QĐ-TTg ngày 15/4/2013 của Thủ tướng
chính phủ về phê duyệt tổng điều tra, kiểm kê rừng toàn quốc giai đoạn 2013 -
2016 thì bản đồ kết quả kiểm kê rừng của các tỉnh có rừng đã được thu thập với
các thông tin chính về hiện trạng rừng, trữ lượng rừng, quy hoạch ba loại rừng,
chủ quản lý rừng.
Từ quan điểm, định hướng,
mục tiêu phát triển lâm nghiệp và quy hoạch hoạch ba loại rừng toàn
quốc đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030; Chiến lược phát triển lâm
nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020; Đề án Tái cơ cấu ngành Lâm
nghiệp; Chương trình mục tiêu phát triển Lâm nghiệp bền vững giai đoạn
2016-2020; Nghị quyết số 134/2016/QH13 của Quốc hội khóa XIII về điều chỉnh
quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất cuối kỳ (2016-2020)
cấp quốc gia; Văn bản số 1927/TTg-KTN ngày 02 tháng 11 năm 2016 của Thủ
tướng Chính phủ về việc phân bổ chỉ tiêu sử dụng đất cấp quốc. Đồng
thời việc thực hiện Chỉ thị 38/2005/CT-TTg đến nay đã được trên 10 năm,
trong giai đoạn này một số tỉnh đã có những điều chỉnh cục bộ ba
loại rừng để sát với thực tế sản xuất, đồng thời trong giai đoạn
này các địa phương cũng đã thực hiện một số dự án quan trọng phục vụ
kinh tế - xã hội và an ninh quốc gia nên đã làm thay đổi rất lớn đến
cơ cấu ba loại rừng, cũng như tổng diện tích đất lâm nghiệp. Ngoài
những vấn đề nêu trên thì quy hoạch ba loại rừng hiện nay vẫn còn
một số tồn tại, hạn chế cần phải rà soát, điều chỉnh lại cho phù
hợp, như: Số liệu diện tích quy hoạch ba loại rừng hiện tại của các địa phương
chưa đúng với chỉ tiêu phân bổ sử dụng đất cấp quốc gia của Chính phủ
(Công văn 1927/TTg-KTN) cũng như Nghị quyết số 134/2016/QH13 của Quốc hội; Số
liệu quy hoạch ba loại rừng toàn quốc không giống nhau từ 6 nguồn tài liệu: (1)
Nghị quyết 134/2016/QH13 ngày 09/4/2016; (2) Công văn số 1927/TTG-KTN ngày
2/11/2016 của Thủ tướng; (3) Bản đồ kết quả quy hoạch ba loại rừng theo Chỉ
thị số 38/2005/CT-TTg; (4) Số liệu quy hoạch theo Chỉ thị số 38/2005/CT-TTg;
(5) Bản đồ kết quả Điều tra kiểm kê rừng 2013-2016; (6) Quyết định 1976/QĐ-TTg
ngày 30/10/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch hệ thống rừng
đặc dụng cả nước đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; điều này phản ánh
chất lượng quy hoạch và quản lý quy hoạch còn nhiều bất cập. Chính vì vậy mà việc
rà soát, điều chỉnh quy hoạch 3 loại rừng của các địa phương và việc rà soát,
đo đạc lại ranh giới, diện tích của các chủ quản lý theo ranh giới quy hoạch mới
làm cơ sở để cấp đổi, cấp mới Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, rừng cho các
đơn vị chủ rừng là tất yếu.
Theo Điều 8 của Quyết định 3013/1997/QĐ-BNN ngày 20/11/1997 thì vị trí
cắm mốc: Mốc được chôn cố định xuống đất trên đường ranh giới đảm bảo bền vững
chắc chắn; Tại các vị trí đổi hướng của đường ranh giới, nơi không có địa hình
đặc trưng, khó phân định ranh giới thì nhất thiết phải cắm mốc; Đối với những
nơi giáp khu dân cư có nhiều nguy cơ bị xâm phạm, nơi ranh giới khó nhận biết
do có quá ít các chi tiết địa hình, địa vật như vùng đồi bát úp hoặc đất bằng
ven biển, cự ly các mốc không quá 1.000 mét; Bảng cắm trên đường ranh giới khu
rừng đặc dụng, khu rừng phòng hộ ở những vùng giáp ranh, nơi tiếp giáp khu dân
cư, nơi có đường giao thông qua lại hoặc nơi có rừng đang bị chặt phá, lấn chiếm
mạnh.
Trong phạm vi hoạt động của Chi cục
Kiểm lâm vùng IV có 177 chủ rừng bao gồm: 03 Vườn quốc gia thuộc Tổng cục Lâm
nghiệp; 6 Vườn quốc gia trực thuộc UBND các tỉnh; 13 Khu BTTN; 90 Ban quản lý rừng
đặc dụng, phòng hộ; 65 doanh nghiệp Nhà nước. Đơn cử có năm 2010 khu BTTN Tà
Đùng với quy mô 22.100,3 ha rừng và đất rừng, nằm trên địa giới hành chính 02
xã Đăk Som, Đăk Plao - huyện Đăk Glong - tỉnh Đăk Nông, tổng số mốc: 100 mốc với
tổng kinh phí: 227.324.820 đồng; Năm 2016 Ban quản lý rừng phòng hộ Sông Kôn, tỉnh
Quảng Nam với diện tích 24.469,39 ha nằm trên địa bàn các huyện: Đông Giang và Đại
Lộc, tỉnh Quảng Nam, tổng số mốc: 462 cái (400 mốc, Bảng BTCT: 12 bảng; Bảng bằng
tôn: 50 bảng) với tổng kinh phí 1.427.164.089 đồng (Tờ trình số131 /TTr-SNN&PTNT, ngày 11/4/2016 của Sở Nông
nghiệp và PTNT tỉnh Quảng Nam về Đề nghị phê duyệt báo cáo kinh tế - kỹ thuật
và thiết kế bản vẽ thi công công trình cắm mốc ranh giới lâm phận Bna quản lý rừng
phòng hộ Sông Kôn tỉnh Quảng Nam).
Qua đó cho thấy, trên thực tế việc
đóng cọc mốc, cắm biển báo ranh giới ba loại rừng với nguồn kinh phí tương đối
lớn nhưng cột mốc có thể bị di dời qua thời gian. Thay vì đóng mốc, có thể thay
bằng đai xanh (trồng cây xanh) hoặc băng trắng tùy theo điều kiện từng địa
phương, địa hình sẽ hiệu quả. Mặt khác, ở những vùng giáp với vùng sản xuất
nương rẫy của người dân thì thay việc cắm mốc ranh giới bằng đai xanh (trồng
cây xanh) vừa phân định ranh giới rõ ràng vừa có tác dụng làm băng cản lửa khi
người dân dùng lửa bất cẩn để cháy lan vào rừng. Vậy thì nên chăng cần khuyến
khích trồng đai xanh thay cho cắm cọc mốc bằng bê tông ở những nơi có thể như
hiện nay.
(Nguồn: sưu tầm ảnh từ internet)
Lâm nghiệp được xác định là một
ngành kinh tế, kỹ thuật đặc thù, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế xã
hội, phát triển nông nghiệp và nông thôn, bảo vệ môi trường và an ninh quốc
phòng. Trong Luật Bảo vệ và phát triển rừng có ghi “Rừng là tài nguyên quý báu
của đất nước, có khả năng tái tạo là bộ phận quan trọng của môi trường sinh
thái, có giá trị to lớn đối với nền kinh tế quốc dân, gắn liền với đời sống của
nhân dân với sự sống còn của dân tộc”. Ngoài việc cung cấp các sản phẩm vật chất
truyền thống cho nền kinh tế quốc dân như gỗ và các loại lâm sản ngoài gỗ, lâm
nghiệp còn cung cấp nhiều dịch vụ to lớn trong bảo vệ môi trường và giảm nhẹ
thiên tai như giảm phát thải khí nhà kính, bảo vệ đất, điều tiết nguồn nước, bảo
vệ cảnh quan, bảo tồn nguồn gen và tính đa dạng sinh học.
Những kết quả và thành tựu đạt được
trong công tác bảo vệ và phát triển rừng trong thời gian qua rất đáng ghi nhận,
qua đó góp phần quan trọng vào sự nghiệp xóa đói giảm nghèo và bảo vệ môi
trường, chống biến đổi khí hậu, một trong những vấn đề nóng nhất hiện nay.
Nguồn: Hòa Bình – Phòng Nghiệp vụ
II