Tỉnh Quảng Nam, với sự đa dạng sinh học phong phú, đang đối mặt với nhiều thách thức trong công tác bảo vệ và phát triển nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá này. Với mục tiêu nắm bắt, nâng cao hiệu quả quản lý tài nguyên rừng, Chi cục Kiểm lâm vùng IV đã ban hành văn bản số 191/KLV4-QLR ngày 20/8/2024 về việc kiểm tra, đôn đốc quản lý động vật rừng, thực vật rừng tại tỉnh Quảng Nam từ ngày 16-18/9/2024. Bài viết này sẽ cung cấp cái nhìn sâu sắc về những nỗ lực của các cơ quan chức năng trong việc thực hiện công tác kiểm tra, đôn đốc và bảo vệ tài nguyên rừng tại tỉnh Quảng Nam.
Kiểm tra là một trong những hoạt động quan trọng nhằm đảm bảo việc tuân thủ pháp luật trong việc bảo vệ động vật và thực vật rừng. Đây không chỉ là trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức mà còn là nhiệm vụ của các cơ quan chức năng để bảo vệ môi trường sống của các loài động vật quý hiếm.
Từ đầu năm đến nay, Chi cục Kiểm lâm tỉnh Quảng Nam đã ban hành và tham mưu cấp thẩm quyền ban hành các văn bản chỉ đạo liên quan hoạt động quản lý động vật rừng, thực vật rừng, điển hình như: Công văn số 896/CCKL-TT-PC ngày 14/12/2023 về việc triển khai mở đợt cao điểm tăng cường kiểm tra, xử lý các hành vi vi phạm về lâm nghiệp dịp trước, trong và sau Tết Nguyên đán Giáp Thìn – 2024; Công văn số 172/CCKL-TT-PC ngày 27/3/2024 về việc tăng cường kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về động vật hoang dã; Công văn số 423/CCKL-TT-PC ngày 03/6/2024 về việc tăng cường kiểm tra xử lý vi phạm về động vật hoang dã; Kế hoạch số 20/KH-CCKL ngày 05/4/2024 triển khai các hoạt động trong chuỗi các hoạt động hưởng ứng Năm phục hồi đa dạng sinh học Quốc gia – Quảng Nam 2024. Ngoài ra, tham mưu Sở Nông nghiệp và PTNT tổ chức Tọa đàm trao đổi thông tin kết quả phối hợp bảo vệ động vật hoang dã xuyên biên giới giữa hai tỉnh Quảng Nam và tỉnh Sê Koong (Lào) nhằm sơ kết đánh giá triển khai Kế hoạch hợp tác giai đoạn 2023-2025, hoạt động bảo vệ động vật hoang dã khu vực biên giới tại huyện Nam Giang.
Các Hạt Kiểm lâm đã tham mưu UBND huyện đồng thời ban hành các công văn tăng cường công tác quản lý bảo vệ động vật hoang dã, định kỳ xây dựng Kế hoạch kiểm tra các cơ sở nuôi, trồng thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm; thực vật, động vật hoang dã nguy cấp thuộc Phụ lục CITES và động vật rừng thông thường trên địa bàn quản lý.
Đến thời điểm hiện tại, trên địa bàn tỉnh Quảng Nam có tổng 199 cơ sở nuôi động vật rừng (trong đó có 147 cơ sở được cấp mã số cơ sở nuôi) với tổng 10.024 cá thể, trong đó: 2.702 cá thể/ 147 cơ sở động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm và động vật hoang dã nguy cấp thuộc phụ lục CITES; 7.322 cá thể/52 cơ sở động vật rừng thông thường.
Số lượng các loài động vật rừng, thực vật rừng được nuôi, trồng trên địa bàn tỉnh, cụ thể:
- Động vật rừng thông thường gồm 03 loài (Nhím, Don, Dúi);
- Động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm gồm 02 loài (Cầy vòi hương, Cầy vòi mốc).
Từ đầu năm đến nay Chi cục Kiểm lâm Quảng Nam đã hướng dẫn và cấp mã số cơ sở nuôi động vật rừng cho 50 cơ sở, trong đó, không có cơ sở được cấp mã số bổ sung; thu hồi 01 mã số cơ sở nuôi, trồng theo đề nghị của chủ cơ sở nuôi (theo khoản 4 Điều 18 Nghị định số 06/2019/NĐ-CP ngày 22/01/2019 của Chính phủ).
Cùng với đó hoạt động tiếp nhận và xử lý động vật hoang dã diễn ra rất hiệu quả, cụ thể: Đã tiếp nhận cứu hộ 1.789 cá thể; đã thả lại môi trường tự nhiên: 09 cá thể động vật (02 cá thể Tê tê, 01 cá thể rùa hộp trán vàng, 02 cá thể rùa đất pulkin, 01 cá thể khỉ vàng, 02 cá thể Khỉ đuôi lợn, 01 cá thể rùa sa nhân).
Từ ngày 16 - 17/09/2024, đoàn công tác đã phối hợp với Chi cục Kiểm lâm tỉnh Quảng Nam và các bên có liên quan làm việc với 04 cơ sở nuôi động vật hoang dã trên địa bàn, trong đó có 01 Cơ sở bảo tồn đa dạng sinh học do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Nam cấp tại Quyết định số 516/QĐ-STNMT ngày 15/8/2023. kết quả kiểm tra cho thấy 03/04 cơ sở đã được cơ quan chức năng cấp mã số cơ sở nuôi/trồng (01 cơ sở đang hoàn thiện thủ tục cấp mã số), có giấy tờ pháp lý, hồ sơ nguồn gốc đầy đủ. Đối với cá thể Gấu ngựa: tại Công ty Vinpearl ghi nhận có gây nuôi 05 cá thể Gấu ngựa (Ursus thibetanus), số lượng đã gắn chip điện tử thế hệ mới là 05/05 cá thể. Đoàn kiểm tra sử dụng thiết bị dò chip chuyên dụng (máy Agrident AWR300-WLAN) 05 Cá thể Gấu ngựa (Ursus thibetanus) giới tính cái, đọc được mã số chíp (mã số 982 00 0407019082; 928 00 0407011278; 928 00 04070 19713, 982 00 0407019730 và 928 00 0407019192) chíp gắn trên Gấu hoạt động tốt, thông tin Gấu đúng mã số chíp đã gắn.
Sử dụng thiết bị dò chip chuyên dụng (máy Agrident AWR300-WLAN) kiểm tra mã số chip trên từng cá thể Gấu.
Các các thể gây nuôi tại Công ty có bộ phận thú y theo dõi, chăm sóc sức khỏe, chích ngừa nhằm phòng chống dịch bệnh cho động vật và con người. Trong quá trình gây nuôi, công ty đã thực hiện mở sổ theo dõi hoạt động nuôi động vật hoang dã theo mẫu tại nghị định 06/2019/NĐ-CP ngày 22/01/2019 của Chính Phủ.
Cơ sở nuôi Cầy vòi hương (Paradoxurus hermaphroditus) của hộ gia đình trên địa bàn huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam.
Cơ sở nuôi Don của ông Nguyễn Thành Minh, địa chỉ: thôn Tân Thuận, xã Hiệp Thuận, huyện Hiệp Đức.
Nhìn chung, 03 cơ sở nuôi trong khu nhà mái lợp tôn, nền bê tông, có hệ thống chuồng trại thoáng mát, chuồng được làm bằng gạch và khung sắt, bọc lưới sắt, có mái che đảm bảo an toàn cho người và vật nuôi, phù hợp với sinh trưởng và phát triển của Cầy vòi hương và Don. Mỗi cũi hình hộp có thể tích khoảng 0,38 m3 đến 1,2 m3 (rộng 0,6m, dài 0,9m dến 2m, cao 0,6m đến 1m, có 4 chân cao từ 0,2 đến 0,5m) có thể nuôi được 2-3 cá thể. Đáy cũi làm bằng lưới mắt cáo để phân lọt xuống nền, khi vệ sinh dọn phân được dễ dàng. Chăn nuôi theo mô hình hộ gia đình, nhỏ lẻ, vì mục đích thương mại.
Các cá thể gây nuôi tại cơ sở được theo dõi, chăm sóc sức khỏe, chích ngừa nhằm phòng chống dịch bệnh cho động vật và con người.
Trong quá trình gây nuôi 03 cơ sở đã thực hiện mở sổ theo dõi hoạt động nuôi động vật hoang dã, đồng thời đã được đoàn công tác hướng dẫn cụ thể hơn trong quá trình ghi chép sổ theo dõi theo mẫu số 14 phụ lục kèm theo Nghị định 06/2019/NĐ-CP ngày 22/01/2019 của Chính Phủ.
Thông qua các hoạt động kiểm tra, đôn đốc quản lý động vật rừng và thực vật rừng tại tỉnh Quảng Nam, có thể thấy rằng công tác bảo vệ tài nguyên thiên nhiên đang được thực hiện khá nghiêm túc. Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả cao hơn, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng và cộng đồng. Việc nâng cao nhận thức, tăng cường giáo dục và phổ biến kiến thức về bảo vệ động thực vật hoang dã là vô cùng cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Chỉ khi mỗi cá nhân đều nhận thức được trách nhiệm của mình, thì công tác bảo vệ tài nguyên thiên nhiên mới có thể thực sự hiệu quả và bền vững. Để làm được điều này, các cơ quan chức năng cần không ngừng cải tiến phương pháp quản lý, đồng thời nâng cao chất lượng đào tạo cho lực lượng kiểm lâm. Cùng với việc áp dụng công nghệ hiện đại trong quản lý, như việc sử dụng máy bay không người lái để giám sát khu vực rừng hoặc thiết lập hệ thống thông tin quốc gia về động vật hoang dã, chúng ta có thể kỳ vọng vào một tương lai bảo tồn tài nguyên thiên nhiên cũng như sự phát triển bền vững hơn tại tỉnh Quảng Nam. Bên cạnh đó, các hoạt động kết nối cộng đồng như tổ chức các sự kiện toàn dân tham gia bảo vệ động vật hoang dã cũng góp phần quan trọng trong việc tối ưu hóa quy trình này.
Cuối cùng, sự hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ động vật rừng và thực vật rừng cũng cần được đẩy mạnh. Việc tham gia vào các hiệp định quốc tế sẽ giúp Việt Nam nhận thức rõ hơn về giá trị của động thực vật hoang dã, đồng thời học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia khác.
Trong bối cảnh hiện nay, khi mà nguy cơ tuyệt chủng của nhiều loài động vật rừng và thực vật ngày càng lớn, trách nhiệm bảo vệ chúng càng trở nên cấp thiết. Không chỉ vì lợi ích của các thế hệ tương lai mà còn để gìn giữ vẻ đẹp đa dạng của thiên nhiên mà chúng ta đang sống. Nhờ vào những nỗ lực không ngừng trong việc kiểm tra, đôn đốc quản lý động vật rừng và thực vật rừng, tôi tin rằng Quảng Nam có thể trở thành một hình mẫu tiêu biểu cho các địa phương khác trong cả nước về bảo tồn tài nguyên thiên nhiên.
Nguồn: Nguyễn Phi Hùng, Kiểm lâm viên phòng Quản lý bảo vệ rừng - Chi cục Kiểm lâm vùng IV